MÔI GIỚI XIN VIỆC, CHẠY VIỆC KHÔNG THÀNH GIẢI QUYẾT NHƯ THẾ NÀO?

MÔI GIỚI XIN VIỆC, CHẠY VIỆC KHÔNG THÀNH GIẢI QUYẾT NHƯ THẾ NÀO?

MÔI GIỚI XIN VIỆC, CHẠY VIỆC KHÔNG THÀNH GIẢI QUYẾT NHƯ THẾ NÀO?

MÔI GIỚI XIN VIỆC, CHẠY VIỆC KHÔNG THÀNH GIẢI QUYẾT NHƯ THẾ NÀO?

NỘI DUNG TƯ VẤN: 

Kính chào luật sư, xin tư vấn cho tôi một vấn đề cụ thể như sau:

Bố tôi là X, năm 201x bố tôi có nhận một số khoản tiền của một số người quen để xin chạy việc (viết trên giấy ghi nhận nợ là vay tiền). Số tiền ông nhận của những người đó ông lại đưa cho 1 người tên là T để nhờ xin việc (Viết trên giấy tờ là vay nợ tiền). Bà T này nói với Bố tôi là làm ở sở Nội vụ của tỉnh nên có thể xin được việc cho Bố tôi. Bố tôi đưa cho bà T này khoản tiền rất lớn lên đến hơn 1 tỷ đồng. Nhưng chờ mãi mấy tháng bà T không xin được việc cho ai nên Bố tôi có đòi bà T trả lại số tiền mà bố tôi đã đưa cho bà T. Nhưng bà T không trả hết cho bố tôi mà mỗi lần trả chỉ trả 5-10 triệu, tổng số lần trả cộng lại chỉ hơn 100tr, nên bố tôi lại tiếp tục đòi gắt bà T để trả lại cho những người mà bố tôi đã nhận tiền. Một hôm Bà T hẹn bố tôi đến 1 quán cafe để trả tiền, Bố tôi cũng gọi cho 1 anh là người mà đưa diền cho bố tôi nhờ xin việc hộ đi lấy tiền cùng, ở quán cafe đó bà T có nói là đã trả hết tiền cho bố tôi và đưa ra 1 tờ giấy có ghi số tiền đã trả cho bố tôi là hơn 1 tỷ và nói là với số tiền đã trả thì đã trả hết rồi. Bố tôi không chấp nhận nên đã kiện bà T ra toà và mang tờ giấy ghi trả nợ đó đi thẩm định thì được kết luận là tờ giấy đó được làm giả và số tiền ghi trên tờ giấy là được chèn thêm vào.

Hỏi: Nếu Bố tôi muốn đòi lại số tiền trên nếu ở tòa án dân sự thì liệu bà T có chịu trả Bố tôi số tiền còn thiếu đó không và hình thức xử phạt mà 2 người phải chịu là như thế nào? Còn nếu ra hình sự thì tội của Bố tôi có bị kết án là đồng loã và xử lý như thế nào? Bố tôi phải làm như thế nào để đòi lại được số tiền đó và giải quyết nhẹ nhàng nhất. Tôi xin cảm ơn! 

TRẢ LỜI TƯ VẤN:  

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Luatbinhduong.net. Trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Thứ nhất, về trách nhiệm hình sự của bà T:

Căn cứ theo quy định tại Điều 354 về Tội nhận hối lộ của Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

"1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn trực tiếp hoặc qua trung gian nhận hoặc sẽ nhận bất kỳ lợi ích nào sau đây cho chính bản thân người đó hoặc cho người hoặc tổ chức khác để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục 1 Chương này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Lợi ích phi vật chất.

..."

Đối với trường hợp của bạn, cần làm rõ thông tin bà T có làm ở sở nội vụ của tỉnh hay không, trường hợp bà T là người có chức vụ, quyền hạn đúng với thông tin bà T đưa ra thì hành vi nhận tiền để chạy việc của bà T có thể bị truy cứu TNHS về Tội nhận hối lộ theo quy định tại Điều 354 Bộ luật hình sự 2015 nêu trên.

Trong trường hợp bà T dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra các thông tin không đúng sự thật (như thực tế bà T không làm ở sở nội vụ) để bố bạn tin tưởng giao tiền xin việc, sau khi không xin được việc thì không trả lại tiền và có ý định chiếm đoạt số tiền này thì hành vi của bà T có thể cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015:

"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

..."

Thứ hai, đối với hành vi của bố bạn:

Căn cứ theo quy định tại Điều 365 về Tội môi giới của Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

"1. Người nào môi giới hối lộ mà của hối lộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

b) Lợi ích phi vật chất.

..."

Trường hợp này, bố bạn có hành vi làm trung gian nhận tiền của người quen, sau đó đưa tiền cho một người khác để chạy việc. Hành vi này của bố bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội môi giới hội lộ theo quy định tại Điều 365 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Ngoài ra, nếu như bố bạn không có đủ dấu hiệu cấu thành về tội môi giới hội lộ và bà T không đủ dấu hiệu để cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội nhận hối lộ theo quy định của Bộ luật hình sự thì bố bạn có thể khởi kiện ra Tòa án dân sự để đòi lại số tiền bà T đã nhận để xin việc cho người quen của bố bạn.

Căn cứ theo quy định tại Điều 117 về Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự của Bộ luật dân sự năm 2015:

"1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định."

 Đối với trường hợp của bạn, việc bố bạn đưa tiền cho bà T để nhờ xin việc nhưng lại viết giấy vay tiền, giao dịch giữa bố bạn và bà T đã vi phạm điều cấm của pháp luật do đó bị vô hiệu theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu là các bên phải trả lại cho nhau những gì đã nhận, khôi phục tình trạng ban đầu. Bố bạn có thể khởi kiện ra tòa án nơi bà T cư trú để yêu cầu giải quyết.

Trên đây là nội dung tư vấn của Luatbinhduong.net về vấn đề bạn vừa yêu cầu. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email: lbd@luatbinhduong.net hoặc gọi điện tới số điện thoại (0274) 6270 270 để được tư vấn hỗ trợ nhanh nhất.

Trân trọng!

 

Chia sẻ:
Tin liên quan
CÔNG TY TNHH NHÔM KÍNH THANH BÌNH CÔNG TY CỔ PHẦN ANNA HOLDINGS CÔNG TY LUẬT ADB SAIGON CÔNG TY TNHH XÂY LẮP NHẬT HUY
© 2017 Luật Bình Dương