GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI?

GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI?

GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI?

GIAO CẤU HOẶC THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI?
Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là hành vi của một người đã thành niên giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không trái với ý muốn của nạn nhân.
Tội giao cấu với người từ 13 đến dưới 16 tuổi:
Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định tại điều 145 BLHS 2015, theo đó được xây dựng thành 4 khoản. Khoản 1 quy định cấu thành cơ bản của tội phạm với khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Khoản 2 và khoản 3 quy định khung tăng nặng đối với tội phạm này với mức cao nhất của tội dah lên đến 15 năm tù. Khoản 4 quy định về hình phạt bổ sung đối với người thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
1. Về phía người thực hiện tội phạm
a. Chủ thể thực hiện tội phạm
Người phạm tội phải là người đã thành niên, tức là người đã đủ 18 tuổi trở lên. Chủ thể của tội phạm này có thể là nữ giới, nhưng đa số là nam giới.
Việc giao cấu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là có sự đồng tình của hai người, không bên nào ép buộc bên nào. Sự thoả thuận này có trường hợp là mối tình yêu đương giữa hai người, nhất là ở những vùng có trình độ dân trí thấp và vẫn còn duy trì tục lệ tảo hôn.
Việc trừng trị hành vi giao cấu thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi bằng luật hình sự của Nhà nước ta cũng chủ yếu nhằm bảo vệ sự phát triển bình thường về mặt tình dục đối với người chưa đủ 16 tuổi, phòng tránh những trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, ngoài ra còn là sự răn đe của Pháp luật.

b. Hành vi phạm tội
Ở đây có hai hành vi cơ bản để người thực hiện tội phạm thực hiện là: hành vi giao cấu và hành vi quan hệ tình dục khác, các hành vi quan hệ tình dục khác mặc dù chưa được TANDTC hướng dẫn một cách cụ thể nhưng có thể được hiểu là hành vi quan hệ tình dục bằng miệng hoặc là quan hệ tình dục đồng giới thông qua việc sử dụng bộ phận sinh dục nam và hậu môn của một người nam giới khác hoặc các trong quan hệ đồng giới giữa nữ giới với nhau. Đây là các hành vi quan hệ tình dục khác đã được thừa nhận trong thực tiễn đời sống xã hội và trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm tình dục cũng bắt gặp nhưng chưa thể xử lý bởi thiếu quy định.
Như vậy, để thực hiện được mục đích giao cấu hoặc thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác theo ý muốn, thỏa thuận, tự nguyện của nạn nhân trong tội này, người thực hiện tội phạm có thể đạt được mục đích thông qua nhiều trường hợp, nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng chung nhất là không có việc sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, lợi dụng tình trạng không chống cự được của nạn nhân, các thủ đoạn khác hoặc lợi dụng sự lệ thuộc của nạn nhân như ở các tội hiếp dâm, cưỡng dâm. Hành vi của tội này phải được thực hiện một cách đồng thuận, mà nhiều trường hợp chính người thực hiện hành vi còn không ý thức được mình đang thực hiện một hành vi phạm tội.
c. Hậu quả và mối quan hệ nhân quả
Hành vi phạm tội trên về nguyên tắc đã xâm phạm tình dục cũng như sự phát triển của người từ 13 đến dưới 16 tuổi. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi là tội cấu thành hình thức, tức là chỉ cần người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi tình dục khác với nạn nhân là người từ 13 đến dưới 16 tuổi thì đã cấu thành tội phạm này. Bản thân chúng tôi nghĩ rằng, việc thực hiện xong hành vi giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác trong tội phạm nêu trên người từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi không nên được xem là căn cứ để xác định chủ thể thực hiện tội phạm đã phạm tội. Tức là trong ý chí của chủ thể thực hiện hành vi đã thể hiện mong muốn giao cấu hoặc thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác với nạn nhân. Mục đích cuối cùng là thỏa mãn nhu cầu tình dục dù có thuận theo ý muốn đối với nạn nhân nhưng không phù hợp với lứa tuổi và sự non nớt về nhận thức của nạn nhân nên cần phải bị xử lý hình sự.
2. Về phía nạn nhân
Người bị hại trong vụ án giao cấu với người dưới 16 tuổi là người có độ tuổi từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, có thể là nam giới nhưng chủ yếu là nữ giới.
Việc để người phạm tội giao cấu là hoàn toàn có sự tự nguyên, không hề có sự cưỡng bức hay ép buộc nào. Mặc dù họ tự nguyện và có nhiều trường hợp họ yêu cầu không xử lý đối với người phạm tội, nhưng yêu cầu này của họ không được chấp nhận vì họ là đối tượng mà Nhà nước buộc phải bảo vệ.
Chỉ coi là tội giao cấu với trẻ em khi người phạm tội và người bị hại đã thực hiện việc giao cấu, nếu chỉ có những hành vi có tính chất dâm ô mà chưa thực hiện việc giao cấu thì không cấu thành tội giao cấu với trẻ em mà tuỳ trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội dâm ô trẻ em quy định tại Điều 116 Bộ luật hình sự.
3. Hình phạt
Khoản 1 của điều 145 BLHS 2015 quy định về cấu thành cơ bản của tội này như sau: Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Trường hợp tại điều 142 là hiếp dâm với người từ 13 đến dưới 16 tuổi còn trường hợp tại điều 144 là cưỡng dâm với người từ 13 đến dưới 16 tuổi. Như vậy cấu thành của tội này dùng hành vi để xác định một người có phạm tội hay không chứ không xem xét về các yêu tố khác như hậu quả hay mục đích.
Khoản 2 điều 145 quy định về cấu thành tăng nặng với các trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự cụ thể, mà nếu rơi vào các trường hợp này người phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Có tính chất loạn luân;
d) Làm nạn nhân có thai;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.
– Khoản 3 điều 145 quy định về khoản tăng nặng hơn với 2 trường hợp được liệt kê, khung hình phạt  cho người thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội là tù từ 07 năm đến 15 năm.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luatbinhduong.net về vấn đề bạn vừa yêu cầu. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email: lbd@luatbinhduong.net hoặc gọi điện tới số điện thoại (0274) 6270 270 để được tư vấn hỗ trợ nhanh nhất.
Trân trọng!

 

Chia sẻ:
Tin liên quan
CÔNG TY TNHH NHÔM KÍNH THANH BÌNH CÔNG TY CỔ PHẦN ANNA HOLDINGS CÔNG TY LUẬT ADB SAIGON CÔNG TY TNHH XÂY LẮP NHẬT HUY
© 2017 Luật Bình Dương